Tiểu sử Tổng_đốc_Phương

Đỗ Hữu Phương sinh cuối tháng 6 năm 1841 tại Chợ Đũi (Sài Gòn) [3], gốc người Minh Hương, biết chữ Hán, nói được một ít tiếng Pháp.

Cha ông là một người giàu có, tục gọi là Bá hộ Khiêm. Ông này đã cưới con gái một vị quan người Quảng Nam vào Nam Kỳ làm Tri phủ (sau về hưu với chức Lang trung bộ Binh) và sinh ra ông.

Ngày 17 tháng 2 năm 1859, quân Pháp tiến đánh Gia Định, Đỗ Hữu Phương lên Bà Điểm (Hóc Môn) lánh thân và chờ thời. Sau khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ vào tháng 2 năm 1861, ông Phương nhờ cai tổng Đỗ Kiến Phước ở Bình Điền dẫn về giới thiệu với Francis Garnier (lúc bấy giờ đang làm tham biện hạt Chợ Lớn. Sau, ông này mất năm 1873 trong trận Cầu Giấy ở Bắc Kỳ) và được nhận làm cộng sự.

Tham gia hành chính

Buổi đầu, ngày 1 tháng 10 năm 1865, Đỗ Hữu Phương được chính quyền Pháp cho làm hộ trưởng (bấy giờ, thành phố Chợ Lớn chia ra làm 25 hộ)[4], rồi lần lượt trải qua các chức vụ sau:

Năm 1872, được chỉ định làm hội viên Hội đồng thành phố Chợ Lớn.

Năm 1879, làm phụ tá Xã Tây Chợ Lớn là Antony Landes (1879-1884). Giữ chức việc này, ông Phương thường ngầm làm trung gian để giới thương gia người Hoa hối lộ cho các viên chức Pháp. Nhờ vậy, mà ông giàu lên nhanh chóng, uy thế lên cao đến mức quan Toàn quyền Paul Doumer khi vào Nam còn ghé nhà ông ăn uống. Và có lẽ nhờ dịp này mà ông được viên quan trên cho khẩn trưng sở đất ruộng lớn đến 2.223 mẫu[5].

Tháng 7 năm 1867, ông được bổ làm Đốc phủ sứ Vĩnh Long.

Đánh dẹp nghĩa quân

Nhiệm vụ chính của Đỗ Hữu Phương là do thám những hoạt động chống đối Pháp ở vùng Chợ Lớn, Cần GiuộcTân An. Nhưng khác với Lĩnh Binh TấnTrần Bá Lộc, trong lúc đi dò xét, ông Phương tỏ ra khéo léo, tránh gây thù oán công khai, nhờ đó mà bề ngoài thấy ông Phương hiền lành, cứu người này, bảo lĩnh người kia.

Lượt kê một số thành tích của Đỗ Hữu Phương:Tháng 7 năm 1866, tham dự trận đánh đuổi Hai Quyền (con Trương Định) lúc bấy giờ đang lĩnh đạo nghĩa quân làm chủ Bà Điểm (Hốc Môn).

Tháng 11 năm 1867, cùng Tôn Thọ Tường đi Bến Tre để chiêu dụ hai cậu con trai ông Phan Thanh GiảnPhan Liêm và Phan Tôn. Theo "Hồ sơ cá nhân của Đỗ Hữu Phương" mang ký hiệu SL. 312 trong văn khố (kho Services Locaux)[6], thì chính ông là người đã xúi thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, và sau đó còn tham dự trận đánh dẹp Phan TòngBến Tre vào tháng 11 năm 1867.

Tháng 6 năm 1868[7], xuống Rạch Giá dẹp cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực.

Tháng 7 năm 1869, khi làm Đốc phủ sứ ở Vĩnh Long, góp phần truy nã nghĩa quân khi viên phó tổng ở Vũng Liêm bị giết.

Theo nhà văn Sơn Nam[8], Đỗ Hữu Phương còn có những hành động giúp Pháp khác nữa, như:

  • Bắt quản Thiện và quản Việt ở Lò Gốm (Chợ lớn).
  • Cung cấp tài liệu và điều tra cuộc nổi dậy và nhiều vụ ám sát ở vùng Chợ Lớn vào năm 1866-1867.
  • Trình danh sách một số lãnh tụ kháng Pháp, sắp khởi nghĩa ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ năm 1873.
  • Do thám khởi nghĩa ở Phước Lộc (Cần Giuộc) vào năm 1871 và năm 1875.
  • Năm 1879, tố giác âm mưu nổi dậy của nhóm Thiên Địa HộiSóc Trăng.
  • Năm 1881, cùng với một Cha sở ở Lương Hòa (Tân An) tố giác âm mưu các cuộc nổi dậy ở Long Hưng, Lộc Thành và ở vùng Bảy Núi (Châu Đốc)
  • Năm 1878, bắt dân ở tổng Lộc Thành Hạ làm xâu, khi điều khiển việc sửa sang con kinh Nước Mặn.

Tuy nhiên, trong đời làm quan của Đỗ Hữu Phương có một lần ông bị mất tín nhiệm vì xin chứa chấp Thủ Khoa Huân ở trong nhà mình. Suốt khoảng ba năm (sau khi bị đày ở Cayenne, Guyane rồi được ân xá), ông Huân đã biết lợi dụng hoàn cảnh để liên lạc với các người Hoa theo Thiên Địa Hội ở Chợ Lớn và tới lui vùng Tân An để cổ súy, tổ chức cuộc kháng chiến.

Nhưng nhờ thành tích, nhờ được lòng quan trên, mà Đỗ Hữu Phương vẫn ung dung, vẫn ngày càng giàu thêm, và được nhận các phần thưởng như sau: Huyện Danh dự (25 tháng 7 năm 1868), Huy chương vàng (31 tháng 12 năm 1868), Phủ Danh Dự (4 tháng 8 năm 1869), Đốc phủ sứ Danh dự (4 tháng 8 năm 1868), Đệ tam đẳng bội tinh (1 tháng 1 năm 1891), Tổng đốc Danh dự (8 tháng 10 năm 1897) [9]. Ngoài ra, ông còn nhận được những ưu đãi khác, như:Năm 1878, ông được qua Pháp dự hội chợ quốc tế.Năm 1881, ông được gia nhập quốc tịch Pháp, và liên tiếp qua Pháp vào các năm 1884, 1889, 1894[10].

Liên quan